(Lược ghi theo tài liệu hội thảo khoa học về chùa Đại Tuệ do UBND tỉnh Nghệ An tổ chức ngày 18-10-2009 có sự tham gia đầy đủ các ban ngành trong tỉnh, các nhà khoa học trong, ngoài tỉnh và Giáo sư Dương Trung Quốc-Tổng thư kí Hội Sử học Việt Nam, PGS.TS Trần Lâm Biền, cố vấn cao cấp Cục Di sản Bộ VH-TT&DL)
Ngôi chùa cổ này nằm trên đỉnh cao nhất của dãy núi Đại Huệ, thuộc xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Chùa Đại Tuệ
Theo sách “Nghệ An cổ lục”: “Thời cổ có một ngôi sao sa xuống đỉnh núi, sắc sao sáng láo, hình như sao chổi, sao hoá đá, đá ấy rất thiêng”.Thực tại: Sau lưng chùa là đỉnh động Thăng Thiên có bàn cờ tiên bằng đá (Tương truyền đỉnh Thăng Thiên là nơi người hạ giới lên trời và nơi người trời xuống hạ giới). Cách chuông 100m về phía Tây có tảng đá lớn khoảng 5m3, khi dùng đá gõ vào phát ra âm thanh như tiếng mõ (nhân dân gọi là đá Mõ). Phía Đông chếch Bắc có tảng đá lớn tương tự nhưng khi gõ vào nghe như tiếng chuông đồng (nhân dân gọi là đá Chuông). Phía trước chùa có một tảng đá lớn giống như ngai vàng (nhân dân ta gọi là Thạch ngai, không ai dám ngồi vì tương truyền Thạch ngai này là nơi xưa kia Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Quang Trung Nguyễn Huệ từng ngồi chỉ huy tập trận). Phía trước chùa khoảng 400m có hai trụ đá lớn dựng đứng như cổng chùa thiên tạo. Cạnh chùa có một giếng nước cổ sâu chỉ hơn 2m, tuy giếng ở trên đỉnh núi nhưng không bao giờ cạn (nhân dân ở đây cho rằng nước giếng là nước của Phật, uống vào sẽ khỏi bệnh). Sườn núi hai bên chùa có khe Trúc, khe Mai, cạnh chùa còn có ao sen cổ... Trong nhân gian còn truyền tụng bài thơ cổ: “Ngai thạch vững chãi. Chuông đá ngân vang. Mõ đá vọng sang. Bàn tiên thượng đỉnh. Ao sen hương phảng phất. Giếng nước thánh tràn đầy. Ngôi chùa tận trên mây. Người xây, thiên tạo hoá”.
Ngai đá
Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi lại thì nguốn nước trên đỉnh núi Đại Huệ chả ra là một trong sáu nguồn nước thiêng của nước Việt mà từ thời Minh Thái Tổ (Trung Quốc) thể kỷ thứ 14 hàng năm đều sai sứ thần sang tận nơi để tế lễ.
Chùa có tên là chùa Đại Tuệ, thờ Phật Bà Đại Tuệ tức là đại diện cho trí tuệ của Đức Phật (Tuệ Giác, Tuệ Kiếm, Tuệ Lực, Tuệ Tâm, Tuệ Mục, Tuệ Nhãn). Ngôi chùa này là nơi đại giác, đại trí, đại dũng, vô ngã, vị tha, hy sinh, tất cả để đem lòng bác ái từ bi vô hạn, cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Theo tài liệu Phật của giáo hội Phật giáo Việt Nam đây là nơi duy nhất trên đất nước ta có ngôi chùa thờ Phật bà Đại Tuệ.
Chùa Đại Tuệ tương truyền có từ thời vua Mai Hắc Đế đánh quân nhà Đường (năm 627 sau CN). Đến thể kỷ thứ XV, ngôi chùa này được Hồ Vương Quý Ly xây cất lại để thờ Phật bà Đại Tuệ, bởi Phật Bà Đại Tuệ đã giúp Hồ Vương xây thành Đại Huệ làm căn cứ chống giặc Minh.
Chuyện xưa kể rằng, ngày ấy Hồ Vương cho xây tường thành trên dãy núi Đại Huệ. Việc xây dựng gặp nhiều khó khăn, dân phu vất vả nhiều mà không xây được thành. Đêm năm mơ thấy Phật Bà Đại Tuệ chỉ vẽ cho cách xây thành bao quanh? Từ đó, việc xây thành đắp luỹ rất thuận lợi. Biết ơn Phật Bà, Hồ Vương giao cho con gái là công chúa Thái Dương ở lại chùa chăm lo, tu bổ thường xuyên, hương khói phụng thờ, đặng cầu cho quốc thái dân an...
Cho đến thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ, khi trên đường tiến quân ra Bắc đại phá quân Thanh (1789) đã dừng chân ở đây chiêu tập mười vạn quân sĩ tổ chức huấn luyện ở trước sân chùa, nên bãi đất phẳng trước chùa hiện nay vẫn gọi là Bãi Tập. Vua được nhà sư ở chùa mách bảo kế sách hành quân theo thượng đạo Nộn Băng vừa tránh được tai mắt kẻ địch, rút ngắn được đường ra Thăng Long. Thuận lời sư, Quang Trung đã hành quân cấp tốc ra Thăng Long đại phá hai mươi chín vạn quân Thanh trước dự định hai ngày.
Phó Thủ tướng chính phủ Nguyễn Thiện Nhân viếng thăm chùa
Chiến thắng trở về, Hoàng Đế chiếu xuống cắt cho chùa 20 mẫu ruộng giao cho chùa để dân làng lo việc hương khói, thờ cúng quanh năm. Hiện nay cánh đồng dưới chân núi vẫn có tên là ruộng Chùa.
Tại khuôn viên chùa, cách trung tâm khoảng 40m về hường Đông Nam có 2 ngôi mộ lớn được ghép bằng đá.
Theo lời kể của người dân địa phương thì ngôi mộ nằm phía cạnh chùa là ngôi mộ của sư thầy, ngôi mộ ngoài là ngôi mộ của Hoàng đế Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản)?
Dãy Đại Huệ là một danh thắng tuyệt đẹp của xứ Nghệ. Đứng trên đỉnh Thăng Thiên ta nhìn thấy dòng Lam Giang uốn lượn, nhìn thấy toàn cảnh Nam Đàn, Thanh Chương, Đô Lương, Hưng Nguyên, Vinh, Nghi Lộc, Hòn Ngư, Hòn Mắt, Hòn Mê ở Biển Đông. Đứng ở sân chùa ta nhìn thấy vùng đất rộng lớn từ Đức Thọ, Hồng Linh, Nghi Xuân, ta được nhìn rõ hơn dãy Hồng Lĩnh, dãy Thiên Nhẫn. Vì thế trước đây các tạo nhân mặc khách hàng năm vãn cảnh lên chủa làm thơ. Đã có nhiều áng thơ văn đầy cảm xúc nói về phong cảnh nơi đây. Tiêu biểu như bài thơ của Hoàng Giáp Bùi Huy Bích, đốc đồng trấn Nghệ An (1778 - 1781) thơ rằng:
“Tiểu thạch tằng loan tối thượng đầu
Càn khôn diểu diểu ý du du
Thiên tranh liệt chướng hồn nghi dực
Đại chiết trường giang lược tự công
Khứ lộ xuyên điều tăng hiệp hổ
Quy tiên khiêu thái mục tuần ngưu
Tối lân thạch tỉnh tuyền nguyên quát
Thâm cận dung bình, bất tận thu”
Dịch:
“Bậc đá lần lên tới đỉnh cao
Núi non man mác dạ nao nao
Trời chăng rặng núi như xoà cánh
Đất nắn dòng sông tựa uốn quanh
Lối cũ ngõ xuyên, sư bỡn hổ
Đường về roi phất trẻ dong trâu
Lạ cho giếng nước vừa tầm lạ
Múc mãi mà nguồn có hết đâu”
Là danh thắng kỳ thú nằm trên dãy Đại Huệ, ôm ấp lấy một vùng đất được gọi là “địa linh nhân kiệt”.
Chùa Đại Tuệ là không gian tâm linh thiêng liêng, hướng tới sẽ là một khu Di tích Lịch sử Văn hoá có tầm vóc tương xứng với giá trị lịch sử của chùa - Một khu du lịch tâm linh, sinh thái hấp dẫn làm thoả lòng đồng bào và du khách thập phương.